TỔNG QUAN VỀ GIỌNG
TỔNG QUAN VỀ GIỌNG
Ai cũng biết có 3 giọng cơ bản phân chia theo thang âm: cao, trung và trầm cho hai giới.
amnhactrinhthuy.com
0945211555
cơ sở: Bình Thạnh, Hóc Môn
Theo tính chất của giọng, về cơ bản có giọng trữ tình (lyric) và giọng kịch tính (dramatic), hay thiên về cả hai tính chất thành loại vừa trữ tình vừa kịch tính. Các giọng trữ tình có khu trung âm phát triển đầy đủ; còn các giọng kịch tính có độ vang, khỏe, thể hiện được sắc thái của giọng trung gần kề nó. Ở nước ta cho đến nay, Lê Dung vẫn được coi là một giọng nữ cao trữ tình toàn diện hơn cả. Còn các giọng kịch tính "thuần chủng" vẫn chưa thấy xuất hiện, về nam cao còn may mắn có giọng trữ tình-kịch tính như của Gia Hội. Ở ta, ngay cả ca sĩ giọng mezzo-soprano-/nữ trung đã hiếm rồi, nói gì đến contralto/nữ trầm. Một trong những lý do có thể đem ra thanh minh được: dân ta khổ nhỏ, người mảnh, lấy đâu ra những giọng dày, khỏe.
Đi vào chi tiết có thể kể ra đến 20 loại giọng với âm sắc khác nhau, chưa kể loại giọng hài - chuyên hát nhạc châm biếm, hài hước - gọi là buffo mà ở mỗi thang giọng đều có. Sắc thái của giọng quyết định tính cách nhân vật mà ca sĩ sẽ đóng. Chẳng hạn, giọng nam trầm đại/basso profundo được miêu tả như một giọng thâm trầm, trang trọng, âm vực rộng, sở trường ở khu trầm lớn, thể hiện tính oai nghiêm thần thoại - đâm ra những ai có chất giọng này không trượt đi đâu các vai thần thánh, như vai "đạo sĩ" trong Viên đạn thần của Weber (tại Việt Nam từng được giao cho Quốc Hưng), hay vai Thần mặt trời Sarastros trong Cây sáo thần. Các nhà soạn nhạc chẳng mấy khi viết cho giọng hiếm hoi này, nhân vật đại quý tộc cùng tên trong vở Don Carlos của Verdi là một ngoại lệ.
Trong các loại giọng nam còn có một loại giọng đặc biệt - phản nam cao/counter-tenor - không hẳn là một giọng nam cao, mà thường là những người có giọng nhẹ đảo ngược giọng của họ lại để hát lên âm khu cao. Cho nên gọi là giọng phản nam trầm (bass-desus), thì cũng không sai. Giữa thế kỷ XX, một sự quan tâm trở lại với loại loại giọng này đã dẫn đến sự hồi sinh của âm nhạc thời kỳ Phục hưng. Một số nhà soạn nhạc hiện đại viết cho tenor hát the thé như trẻ con(falsetto) hay theo kiểu phản tenor, vai Oberon trong vở Giấc mộng đêm hè dựa trên hài kịch Shakespeare là một ví dụ. Trong các cuộc trình diễn cổ điển thính phòng, ai chỉ hát được giọng phản nam cao có thể sẽ phải chọn các tác phẩm soạn cho nữ trung để thể hiện chất giọng hiếm có của mình.
* Giọng hát - sức bền vật liệu
Sự rèn luyện để trở thành ca sĩ (opera), cũng như đối với một vũ công hay vận động viên, không nằm ngoài sự cần mẫn không ngừng nghỉ, học cách duy trì sức mạnh và hơi thở đều đặn, cùng với việc nắm chắc các kiến thức chung trong âm nhạc. Những ca sĩ có học một nhạc cụ có xu hướng dễ duy trì sự nghiệp hơn. Giọng soprano người Ba Lan Marcella Sembrich (1858- 1935), với sự nghiệp kéo dài hơn 40 năm, cũng đồng thời là một pianist và violinist hoàn hảo. Ca hát như một hoạt động cực kỳ cá thể, đến nỗi không có hai ca sĩ có cũng âm vực và những vấn đề mà mỗi giọng hát bắt gặp cũng không giống nhau.
Vào thế kỷ XIX, nhiều trường dạy thanh nhạc danh tiếng phát triển ở châu Âu, đặc biệt là những trường của Manuel Garcia - bạn đồng sự của Rossini, trong số học sinh của ông có cả hai cô con gái - hai ngôi sao opera nổi tiếng Maria Malibran (1808-36) và Pauline Viardot (1821-1910). Giọng nam cao Jean de Reszke(1850-1925) có một trường dạy hát nổi tiếng ở Paris. Phương pháp của ông phần lớn dựa trên việc dạy riêng với cường độ cao dựa trên một số aria từ các vở opera mà ông khuyến khích các học sinh của mình hát ngày này qua ngày khác cho đến khi hoàn tất chúng, còn được tăng cường bởi các bài tập về các kỹ thuật cơ bản trong staccato - hát ngắt âm, pianissimo - hát nhẹ, fortissimo - hát mạnh và các bài tập dành cho hoành cách mô. Một trong những học trò nổi tiếng nhất của ông là Maggie Teyte (1888-1976), người đã duy trì được khả năng chịu đựng phần lớn nhờ việc dạy dỗ của Reszke: "Làm sao để phát triển và giữ vững chất lượng tự nhiên và đẹp đẽ của giọng hát?- bà viết - Làm sao vượt qua sự căng thẳng và lo lắng của một sự nghiệp nhà nghề".
Một lần làm liều cũng có thể huỷ hoại một giọng hát suốt đời. Ví dụ, trong một quyết định thiếu thận trọng, Nellie Melba quyết định hát vai Brunnhilde trong Siegfried của Wagner. Mặc dù các nốt đều nằm cả trong tầm cữ của cô, sức mạnh cần cho một người hát nhạc của Wagner trong vở opera này nằm ngoài phạm vi của cô. Cô đã kéo căng dây thanh của mình và sau này trong đời vẫn phải chịu những cơn chảy máu mãn tính trong cổ họng.
Tất cả những trận ốm tự nhiên và các stress xảy đến cho cơ thể con người đều tự động ảnh hưởng đến giọng. Đặc biệt những thay đổi trong người phụ nữ ở độ tuổi đầu mãn kinh có thể ảnh hưởng xấu đến giọng hát, nhất là khi chúng không được chú ý. Cũng như một vận động viên chạy cần cân nhắc chặng đua một cách thận trọng và bảo toàn sức lực đã từng dồi dào, người ca sĩ có tuổi cần biết cách tránh dốc kiệt sức, nhất là loại bỏ các vai diễn hay ca khúc có những ảnh hưởng bất lợi.
Ca sĩ Quốc Hưng nhận xét về giọng hát Pavarotti: "Khi Pavarotti hát, âm thanh dựng, khẩu hình tròn, còn hơi thở thì dư thừa. Bậc thầy trong kỹ thuật thanh nhạc , nhưng ông hát vẫn hết sức thoải mái, không căng cứng. Trong 3 giọng tenor của thế giới hiện nay - ông đứng đầu - sau đó mới đến Domingo".
* Nghệ thuật ca hát, thế nào là "hát đẹp"
Nước Ý là nơi đẻ ra nghệ thuật opera. Vào thế kỷ XVII, XVIII, chỉ có ca sĩ người Ý, đặc biệt là castrati (giọng nam bị hoạn từ nhỏ để giữ giọng nam cao như nữ cao) mới hát hay opera Ý. Ngày nay, những vở kinh điển như Đám cưới Figaro, Anh thợ cạo thành Xêvin, Rigoletto, Lucia di Lammermoor... đều là vở của Ý, hát bằng tiếng Ý, theo lối hát Ý - gọi là bel-canto. Nước ta, mọi người quen gọi là hát opera.
Tiếng Ý, bel nghĩa là đẹp, canto nghĩa là hát, bel-canto nghĩa là hát đẹp, hát hay. Hát hay là một chuẩn mực đối với nghệ thuật ca hát của tất cả các dân tộc, trước hết cũng là một yêu cầu chung cho mọi người hát. Ví dụ, trong chèo phải là diễn viên hát hay mới đóng được vai chính.
Giọng "hát đẹp", hay lối hát bel-canto có một tính chất khác hẳn . Dù là giọng nam hay nữ đều có thể sử dụng giọng cao, trung hay trầm, với hiệu quả âm thanh vang khỏe, tròn dày, ấm áp, mềm mại, uyển chuyển và phải có vibrato. Người Ý cho rằng, một giọng hát không có tiếng rung là một giọng hát thiếu sức sống. Song, ở đây phải hiểu rằng đó là tiếng rung của cộng minh, chứ không phải tiếng rung ở cổ. Tiếng rung đó nhẹ nhàng, không rung gấp, cũng không nặng nề và tự nhiên, không do cố tình. Giọng hát có kỹ thuật giỏi là giọng hát, về sắc thái âm lượng, có thể điều khiển khi to khi nhỏ; có thể ngân chậm rãi, ngân dài, cũng có thể hát các câu nhạc kỹ xảo chạy với móc kép trở lên. Một đặc điểm của lối hát bel-canto là ca sĩ phải hát với tầm cữ giọng tối thiểu 2 quãng tám, giọng nữ cao màu sắc (coloratura soprano) phải hát trên 2 quãng tám - khoảng 18, 19 cung - dùng giọng đầu và giọng cổ, không hát giọng thật. Ca sĩopera giỏi phải có giọng hát chuyển từ thấp lên cao, mà âm sắc, khối hình, độ dày vẫn như nhau, trong giới hạn âm vực của giọng mình. Một đặc điểm nữa của bel-canto là hát bằng giọng hơi - nghĩa là phải có sự phối hợp hợp lý giữa hơi thở và khép rung của dây thanh, tạo ra âm thanh không bị cứng đơ... Do sự làm chủ kỹ thuật bel-canto, các ca sĩ opera có thể hiện mọi tình cảm hỉ, nộ, ai, lạc bằng tiếng hát- nghĩa là giọng hát có thể cười nắc nẻ, có thể khóc nức nở... Nữ ca sĩ có kỹ thuật belcanto đỉnh cao nhất được biết đến là Joan Sutherland
Hát nhạc nhẹ dựa trên giọng nói, nói như thế nào hát như thế. Nếu được đào tạo (qua trung cấp thanh nhạc), có thể có cái gì đó khéo hơn, đỡ mệt hơn khi hát, nhưng cơ bản vẫn dựa vào giọng ngực người ta vẫn dùng để nói. Hát trong ca kịch không phải như thế, giọng hát phải trải qua rèn luyện, học hành dựa trên các quy luật sinh lý học cơ thể, về phương pháp đã được tổng kết qua nhiều thế kỷ.